Đăng ngày 22-03-2012 trong chuyên mục Tin tức

Chuyện ngôi miếu Bắc Bỏ và những ‘ông thành hoàng’ đội mũ cối

Dân ấp Đa Biên, Mộc Hóa, Long An, không ai không biết miếu Bắc Bỏ, sở dĩ có cái tên như vậy là vì miếu do dân địa phương tự lập ra thờ hơn 200 anh bộ đội miền Bắc chết bỏ xác tại đó...

Nhân kỷ niệm 64 năm ngày thương binh liệt sỹ, theo chân gia đình Liệt sĩ Nguyễn Văn Tế và đồng đội của Trung đoàn 207 đi tìm hài cốt liệt sĩ, tôi vô tình biết được giữa mênh mông vùng rốn lũ Đồng Tháp Mười có một ấp không ai dám nói dối và có những “Ông thành hoàng” đội mũ cối…

Nhân chứng sống

Ông Ba Thi (Phan Xuân Thi - nguyên là cán bộ Trinh sát Trung đoàn 207, Quân Khu 8 cũ) nay là Trưởng ban liên lạc bạn chiến đấu và CCB Trung Đoàn, đưa chúng tôi đi tìm lại chiến trường xưa nơi Trung đoàn 207 đã có một trận chiến đấu oanh liệt. Ông kể: Tháng 10/1973, đơn vị ông nhận nhiệm vụ bí mật luồn sâu xuống Đồng Tháp Mười thuộc vùng 8 Kiến Tường cũ. Đêm 3/10, trung đoàn triển khai đội hình hành quân từ Mỏ Vẹt (giáp biên giới Căm Pu Chia) bí mật vượt sông Vàm Cỏ Tây đến ấp Đá Biên, huyện Mộc Hóa (nay thuộc huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An) thì trời vừa sáng nên phải ém quân vào một rừng tràm để nghỉ.

Do hành quân bộ suốt đêm giữa đồng nước, bộ đội mệt mỏi rã rời, rừng tràm nhỏ, thưa thớt không đủ che giấu đoàn quân. Anh em phần lớn là tân binh mới nhập ngũ từ ĐH Xây dựng Hà Nội mới bổ sung về đơn vị trước đó 2 ngày chưa quen chiến trường đồng nước, chưa có kinh nghiệm chiến trường đã giăng võng, phơi quần áo lên cây tràm nên bị máy bay trinh sát của địch phát hiện.

Ngay lập tức chúng huy động 12 chiếc trực thăng bao vây bắn xối xả xuống trận địa và ồ ạt đổ quân và xe tăng M113 ập vào hòng bắt sống sở chỉ huy trung đoàn.

Trước tình thế hiểm nguy đơn vị đã nhanh chóng triển khai chiến đấu với tinh thần cảm tử, bắn cháy 1 máy bay trực thăng, tiêu diệt nhiều tên địch mở đường máu đưa được sở chỉ huy trung đoàn thoát khỏi vòng vây của địch an toàn.

Các chiến sỹ cảm tử quân (chủ yếu là tiểu đoàn 1) đã bám sát trận địa, chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, nhưng vì địa hình phức tạp, bị tập kích bất ngờ, lực lượng chiến đấu không cân sức, anh em đã anh dũng hy sinh hơn 200 đồng chí.

Những ngày sau đó, địch tiếp tục đưa trực thăng tới quần đảo tại khu vực này nhằm tiêu diệt bất cứ mầm sống nào còn sót lại trên cánh đồng hoang vu mênh mông nước, chúng cho quân canh giữ không cho ta lấy tử sỹ.

12 ngày sau, đại đội trinh sát cùng với lực lượng địa phương mới tổ chức được lực lượng đưa quân vào tìm đồng đội. Chỉ duy nhất 1 đồng chí cán bộ bị thương nặng, được bà con cấp cứu thuốc men, giấu ngoài đồng hàng đêm đưa cơm ra nuôi sau này đưa về đơn vị chiến đấu (đồng chí này nay vẫn còn sống).

Giữa cánh đồng, xác các anh nổi lên, đồng đội phải dùng màn để vớt vì cánh đồng ngập nước không có đất chôn nên phải bó lại treo lên, hoặc cột chặt vào cây tràm để mùa khô đồng bào chôn giúp.

Giao cho địa phương xong, đơn vị lại tiếp tục hành quân vào trận chiến mới. Rồi chiến dịch Hồ Chí Minh, rồi chiến tranh biên giới Tây Nam. Theo yêu cầu nhiệm vụ mới Trung đoàn 207 giải thể, khu 8 sát nhập khu 9, tỉnh Kiến Tường sáp nhập vào tỉnh Long An, Long An sáp nhập vào quân khu 7…

Mới đó đây mà đã 38 năm…

Ngồi trước chúng tôi là một người phụ nữ nhỏ bé đã ngoài 60 tuổi, đó là bà Hai Đấu - nguyên tỉnh ủy viên tỉnh Kiến Tường, nguyên huyện ủy viên huyện Mộc Hóa, trưởng phòng TBXH huyện Mộc Hóa. Khi chưa thành lập tỉnh Long An, chưa phân huyện thì vùng Thạnh Hóa vẫn thuộc về Mộc Hóa và chính bà đã phụ trách vùng này.

Chúng tôi tìm đến nhà bà trong cơn mưa tầm tã. Biết chúng tôi đi tìm thân nhân liệt sỹ hy sinh trong trận rạch Đá Biên đêm 3/10/1973, bà cho biết chính bà đã cùng du kích nhiều đêm chèo xuồng tìm thương binh, liệt sĩ hy sinh trong trận đó nhưng không gặp ai sống sót. Sau này, do công tác, bà không có điều kiện để quay lại để tìm hài cốt các anh nhưng trong lòng vẫn đáu đáu nỗi đau.

Đến năm 1992 khi về làm trưởng phòng TBXH huyện, bà đã cùng 4 cán bộ đi xuồng về chiến trường cũ. Lúc này sau hòa bình nhân dân đã về vùng này khai hoang trồng lúa sống chung với lũ. Khi gặp hài cốt liệt sĩ phần thì không phân biệt được ai với ai, phần thì hài cốt nhiều nên nhân dân đã chôn chung các anh với nhau. Khi đi quy tập, bà đau lòng quá mà không biết làm sao nên đành đưa các anh về chôn chung thành ngôi mộ tập thể tại nghĩa trang Mộc Hóa. Nói chuyện với chúng tôi mà nỗi đau xót còn hiện trên gương mặt bà, nước mắt bà chảy giữa cơn mưa tầm tã của vùng rốn lũ…

Miếu Bác Bỏ và ông thành hoàng đội mũ cối

Dừng chân tại đầu cầu 79, chúng tôi gửi xe để thuê ghe máy đi vào chiến trường cũ của Liệt sĩ. Trên cầu anh Ba Thi chỉ cho chúng tôi xa xa là rạch Đá Biên, nơi đơn vị hành quân về và bị tập kích bất ngờ. Nghe chúng tôi đi tìm ghe mà nói giọng Bắc, người đàn ông địa phương hỏi ngay có phải chúng tôi tìm vào miếu Bắc Bỏ không? Anh Ba Thi hỏi sao gọi là miếu Bắc Bỏ? Ông ta trả lời dân vùng này ai không biết miếu đó, đó là miếu dân địa phương tự lập ra thờ những người bộ đội miền Bắc chết bỏ xác tại đó nên có tên như vậy.

Chúng tôi thuê ghe máy chạy chừng 3km tính từ chân cầu 79. Dòng kênh này năm 1979 mới đào nên có tên vậy. Đang chạy ngon trớn, chiếc ghe máy bỗng giảm tốc rồi rẽ sang bên phải, hai bên dòng kênh nhỏ dần, xung quanh tràm mọc san sát.

Càng chạy tầm nhìn càng bị cản trở vì bây giờ chỉ còn tràm và tràm. Chạy khoảng 10 phút tài công cho ghe ghé vào một gò đất. Nền đất được đắp nổi xung quanh, 4 bên là các dòng kênh. Trên nền là một chòi lợp tôn đơn sơ, giữa chòi là một tấm bia xây bằng gạch đỏ chẳng tô trát gì. Trên vách là lá cờ đỏ sao vàng. Bên dưới tấm bia là bát nhang và ly, dĩa. Trên nền xi măng là dòng chữ HY SINH GÌ (VÌ) TỔ QUỐC và ngày tháng lập bia.

Nhìn cảnh tượng trên giữa mênh mông rừng tràm có lẽ kí ức xưa kia hiện về, anh Ba Thi gục đầu khóc nấc lên: "Các đồng chí ơi, đau xót quá, 40 năm rồi vẫn cứ nằm đây chẳng ai quan tâm". Vừa khóc anh vừa đập đầu xuống nền đất làm cả đoàn không ai cầm được nước mắt, nhìn nhau ai cũng rưng rưng…

Thấy chúng tôi ghé lên miếu, vợ chồng anh chị Tư Tờ - người đã hiến hơn 200m2 đất lập miếu và là “thủ từ” lâu nay cũng chạy ghe lại. Rồi chúng tôi cùng nhau sắp lễ dâng lên các anh. Đồ lễ thì thật đơn giản nhưng khi vợ Tư Tờ khấn: "các ông ơi về nhận lễ này, đồng đội tới thăm đây, gia đình tới thăm này, có ai nhận ra thân nhân thì theo về chứ cứ than không biết đường về hoài" thì anh Ba Thi lại òa lên khóc. Có lẽ trận chiến với hơn 200 đồng đội hy sinh vẫn là nỗi đau trong lòng không thể nguôi ngoai của người cựu chiến binh này…

Sau khi thắp nhang cho các anh xong chúng tôi hỏi anh Tư Tờ về hoàn cảnh lập miếu, Tư Tờ nói: "Thôi các anh đã tới đây thì ghé nhà tôi nói chuyện, sẵn tôi làm bữa cơm mời mấy anh liệt sỹ cùng về uống rượu luôn". Nói xong hai vợ chồng Tư Tờ thắp nhang khấn: "sẵn có đồng đội tới thăm tôi làm mâm cơm, có chén rượu các anh ghé nhà tôi luôn nha". Nghe Tư Tờ nói khơi khơi vậy mà thái độ chân thành làm chúng tôi vô cùng ngạc nhiên.

Ngày giỗ liệt sỹ thành ngày hội làng

Năm 1974, sau khi vùng này hòa bình, Tư Tờ cùng gia đình về sống lại tại vùng này. Lúc đó còn nhỏ, Tư Tờ thích nón cối nên chống xuồng đi tìm đồ của bộ đội. Không ít lần đi tìm, Tư Tờ gặp phải hài cốt liệt sĩ, khi ít xương, lúc cái sọ. Còn nhỏ quá nên Tư Tờ cũng chỉ biết bỏ chạy khi gặp cảnh đó.

Theo Tư Tờ hài cốt còn nhiều lắm. Sau năm 1975, hòa bình lập lại dân ngày càng về sống tại đó đông hơn. Rồi người ta đốn tràm làm ruộng, lúc cày ruộng gặp rất nhiều hài cốt bộ đội dân chỉ biết gom lại chôn chung. Cũng có người như ông H. gom xương lại đốt nên bị hành điên dại mấy năm trời. Rồi chuyện các anh về báo mộng …

Có gia đình bà B. đêm đêm nghe tiếng gọi: “Ông bà ơi có gì cho con ăn với, con đói lắm, con lạnh lắm, con còn nằm trên cây”. Sáng ngày tỉnh mộng bà và gia đình ra tìm thì quả thật trên ngọn tràm vẫn còn gói hài cốt.

Bản thân nhà Tư Tờ thì gặp hoài, lâu lâu các anh lại “nhập” vào cô con gái rồi than là đói, lạnh và không nhớ đường về quê. Có lúc nhậu chưa hết chai mang cất các anh lại “giận” nói rằng đông vậy uống chưa ”đã” mà mang cất là sao…

Rồi cô con gái bệnh, mang chữa hết viện nọ viện kia mà không hết, bí quá về khấn các anh thì quả nhiên con hết bệnh…

Cứ vậy, người này đồn người kia, ai cũng nói các anh chết trẻ và chết vì Tổ Quốc nên linh thiêng lắm, Tư Tờ tự xây miếu để thờ. Lần thứ nhất che tạm bằng lá rồi có người cho tôn che tạm. Lần thứ hai mua gạch về xây thì các anh “bảo” nhỏ quá ở không đủ lại đập đi mua gạch xây lại lần ba cho tới giờ.

Tôi nhìn nhà Tư Tờ, cả nhà “không có cục gạch chọi chim”, vì động cơ gì mà người đàn ông này 3 lần dựng miếu thờ liệt sĩ? Tư Tờ cười hồn nhiên: "không phải riêng nhà tôi, cả khu này nhân dân thờ các ảnh như “thần hoàng”".

"Hằng năm cứ ngày các anh hy sinh (8/9 âm lịch) là nhân dân cả vùng ghé về. Có gì cúng nấy. Ai có cá, ai có gà, vịt có rượu thì tự mang tới. Trước là cúng các ảnh sau là xin các ảnh phù hộ cho làm ăn may mắn, không có bệnh tật. Rồi ở lại tự “hưởng lộc”, đàn ca cho các ảnh nghe thâu đêm. Vui lắm!".

Và đặc biệt theo Tư Tờ, dân vùng này không biết nói dối. Trước đây ai mới tới mà không biết, lỡ nói dối nói trá, các ảnh “hành” cho hư máy móc hoặc bệnh tật. Dân ở đó nếu có gì chỉ cần thề “nếu nói sai lính bắt” là ai nấy đều sợ. Lâu dần thành quen nên dân ở đây sống thật bụng, không dám dối trá. Và không ai bảo ai, tự mọi người coi các anh là những ông thành hoàng luôn bảo vệ cuộc sống nhân dân vùng này.

Ngồi giữa mênh mông rừng tràm, nghe những người nông dân chân chất nói chuyện mà tôi thấy lâng lâng trong lòng. Không hiểu có phải vì quá yêu quí các anh, tôn trọng sự hy sinh của các anh cho Tổ quốc mà nhân dân nói quá lên như vậy, hay vì sự hy sinh của các anh quá linh thiêng nên các anh đã được trời đất phong thánh.

Những vị thánh rời bỏ bút nghiên, hy sinh tuổi thanh xuân cho quê hương mãi được bình yên. Và dù các anh đã được qui tập về nghĩa trang hay vẫn còn nằm đâu đó trên cánh rừng tràm thì với nhân dân vùng ấp Đá Biên, xã Thạnh Phước, huyện Thạnh Hóa, với chúng tôi, các anh vẫn là những “Ông thành hoàng” - Những “ông thành hoàng đội mũ cối” đã mang lại bình yên, hạnh phúc cho quê hương.

Nhìn lá cờ đỏ sao vàng tung bay giữa rừng tràm mênh mông bát ngát, nhìn ánh mắt rạng rỡ của những người nông dân vùng Đồng Tháp Mười với những mùa lúa bội thu, ngoài những giọt mồ hôi của nông dân hôm nay còn có máu xương của biết bao anh hùng liệt sỹ đã ngã xuống. Tổ quốc mãi mãi ghi nhớ công ơn của các Anh.

Ấp Đá Biên – TP.HCM tháng 7/2011